KỶ NIỆM 60 NĂM ĐHBK HN
NHỮNG VIÊN GẠCH ĐẦU TIÊN
Ngày 01/7/1956 tại Giảng đường I Viện Đại học Việt Nam. ở phố Lê Thánh Tông, Hà Nội - nay là Hội trường Ngụy Như Kontum - GS Hồ Đắc Di, Giám đốc Vụ Đại học & Chuyên nghiệp thuộc Bộ Giáo dục đã thừa ủy nhiệm của Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên công bố danh sách 13 cán bộ được bổ nhiệm về thành lập Bộ môn Toán, "sẽ thuộc" trường Đại học Bách Khoa Hà Nội sau này. Về mặt chính thức, ngày 15/10/1956 mới làm Lễ khai giảng khóa 1 ĐHBK HN trên thực tế từ tháng 3/1956 Bộ Giáo dục đã ra quyết định thành lập một "Ban Tổ chức Trường Đại học chuyên nghiệp Bách Khoa" do đồng chí Hoàng Xuân Tùy làm Trưởng Ban hoạt động, trụ sở đóng trong khu Đông dương học xá cũ. 13 cán bộ của tổ Toán cùng 15 cán bộ các tổ Vật lý, Hóa học, Địa lý địa chất hợp thành đoàn 28 cán bộ giảng dạy đầu tiên của ĐH BK).
Hồi đó tất cả 28 anh em đều mới tốt nghiệp bậc đại học từ 1955 (5 người từ Dự bị đại học và SPCC Thanh Hóa, 9 người từ trường Khoa học và trường Sư phạm của Viện Đại học Hà Nội vùng tạm chiếm cũ mới tiếp quản và 14 người từ Khu học xá Nam Ninh - Dục tài học hiệu - về nước), vì các trường Đại học mới chưa mở, nên Bộ giữ lại tại trường Đại học khoa học Hà Nội (mới tiếp quản) để bồi dưỡng thêm về: Triết học Mác - Lê Nin (Thầy Trần Văn Giàu và Hoàng Xuân Nhị), Nguyên lý Giáo dục học (Thầy Cao Xuân Huy) và một số môn học chuyên ngành - phụ thuộc vào các Thầy tốt nhất trong nước mà lúc đó Bộ mời về được (Về Toán: Thầy Lê Văn Thiêm - Lý thuyết biến hình bảo giác, Thầy Nguyễn Thúc Hào - Hình học vi phân v..v..), Thầy Ngụy Như Kontum dạy Cơ học thuần, còn có anh Ngô Thúc Lanh dạy Đại số, anh Nguyễn Cảnh Toàn vào nghiên cứu về Hình học phi Euclide (vài năm sau phát triển thành các luận văn Kandidat và Doktor Nauk bảo vệ tại Liên Xô) giảng về Hình học xạ ảnh; anh Hoàng Tụy bắt đầu chuỗi nghiên cứu dài hơi về Lý thuyết tối ưu (sau này là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu trong nước và bảo vệ thành công luận án Kandidat Nauk tại Liên Xô tiếp đó là hàng loạt công trình công bố quốc tế, mang về cho anh giải thưởng Caratheodory cao quý) cũng mở xê mi ne giới thiệu về Lý thuyết Xác suất và qui hoạch tuyến tính. Do các Thầy như Thầy Thiêm, Thầy Hào, Thầy Ngụy như KonTum, Thầy Vũ Như Canh v..v.. đều từ lò đào tạo rất chính qui ở Pháp, Đức về nên thống nhất gọi các lớp “học thêm” của chúng tôi là lớp TOÁN III, LÝ III... theo kiểu “sau đại học” – DEA - Diplôme d’Etude approfondies.
Đông dương học xá năm 1956
Trong quyết định phân công - theo đúng cấp bậc trong các trường đại học của Pháp - ghi chức danh là : Trợ lý - Assistant - Khi nghe phổ biến thì nhiều anh em phản ứng: " Tại sao không phải là giảng viên mà lại là trợ lý. trợ lý cho ai? Rõ ràng chúng tôi sẽ đi dạy chứ không trợ lý cho ai cả". Cụ Hồ Đắc Di bực mình nói một câu tiếng Pháp: - "Mais si vous voulez devenir quelqu'un, soyez d'abord quelque chose!" nghĩa là: "Nhưng nếu các anh muốn mình trở thành là AI thì trước hết mình hãy là CÁI GÌ đã!" Anh em rất phản ứng... Sau khi về trường, anh Hoàng Xuân Tùy rất "sáng kiến", anh đã dùng cách gọi không giống ai là "cán bộ giảng dạy" thế mà tên gọi đó đã tồn tại hàng mấy chục năm cho đến tận sau khi có qui định chức danh khoa học trong giảng dạy đại học rồi người ta vẫn còn dùng.
Danh sách tổ Toán đầu tiên:
1. Lê Minh Châu (đã mất);
2. Đinh Nho Chương (sau chuyển về ĐH Sư phạm);
3. Kim Cuông (sau đổi tên là Kim Cương);
4. Tô Xuân Dũng (đã mất);
5. Tạ Văn Đĩnh (tổ trưởng đầu tiên);
6. Trần Văn Hãn (sau 1975 chuyển về Sài gòn).
7. Phan Bá Ngọc (đã mất);
8. Lê Thiện Phố (sau chuyển về UB Khoa học kỹ thuật Nhà nước);
9. Nguyễn Mỹ Quý;
10. Nguyễn Hồ Quỳnh (đã mất);
11. Thái Thanh Sơn;
12. Hoàng Công Tín (đã mất);
13. Nguyễn Đình Trí.
Tổ trưởng đầu tiên của Tổ Toán ĐHBK là anh Tạ Văn Đĩnh, anh người nhỏ nhẹ, đối xử với anh em rất tốt, mặt khác về mặt chuyên môn vì đã học với nhau trong hơn 1 năm trời, cùng ăn cùng ở trong ký túc xá nên anh em nể phục. (Anh Đĩnh được cử đi thực tập 1 năm ở Ukraina, không được ở lại làm luận án PTS, nhưng khi về nước anh là người đầu tiên bảo vệ luận án PTS trong nước năm 1976).
Sang năm 1957, anh Lê Bảo – kỹ sư Việt kiều ở Pháp về - được chính thức bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ môn Toán. Anh Bảo là kỹ sư cơ khí, rất chân thành tự nhận là không chuyên sâu về Toán, tránh trao đổi về chuyên môn với chúng tôi mà chỉ quan tâm công việc tổ chức, ổn định trong Bộ môn, quan hệ với anh em rất tốt, mãi sau này anh chuyển về làm Cục trưởng ở Bộ Giao thông Vận tải vẫn còn liên lạc với chúng tôi.
Cuối năm 1957 Đinh Nho Chương được điều về ĐHSP, Bộ “bù” cho một bạn trẻ, sau chúng tôi 2 khóa là Lâm Khải Bình. Năm 1959, Lê Thiện Phố được chuyển sang Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước sắp thành lập.
Tóm lại là trong hai năm học đầu tiên, Tổ Toán ĐHBK có và chỉ có đúng 12 chàng trai trẻ, với kiến thức lỗ mỗ, với kinh nghiệm dạy đại học bằng không, đương đầu với khối lượng giảng dạy ngập đầu cho gần 2000 sinh viên 2 khóa I và II. Trong 3 học kỳ đầu sinh viên chỉ mới học Giải tich và Hình học giải tích nhưng sang học kỳ IV thì một số khoa ngành như Chế tạo máy, Điện, Vô tuyến điện v..v.., theo chương trình đào tạo của Liên Xô (cụ thể là của Đại học BK Lenigrad thì đã phải học một số chuyên đề như: Phương trình Toán – Lý, Xác suất Thống kê toán học, Hàm biến phức v..v.. nên khối lượng càng tăng).
Bắt đầu khủng hoảng thiếu nhân lực trầm trọng!
BÀI HỌC TỰ LỰC CÁNH SINH, PHẤN ĐẤU HỌC TẬP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
Sau hai năm học đẩu tiên 1956-57 và 1957-58, việc giảng dạy Toán Cao Cấp (Giải tích - Hình giải tích – có thêm tí chút về Xác suất thống kê, Phương trình đạo hàm riêng cho các ngành Cơ khí, Điện, Vô tuyến điện) đã qua một vòng (hồi đó Toán Cao cấp được dạy trong 4 học kỳ đầu), toàn thể bộ môn cũng như lãnh đạo nhà trường tương đối yên tâm về khả năng tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ giảng dạy của bộ môn.
Từ năm 1959, tập thể bộ môn xác định nhiệm vụ trọng tâm bức xúc phải học tập, bồi dưõng để nhanh chóng nâng cao kiến thức.
Cùng với các bạn đồng khoá về công tác tại Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, chúng tôi thành lập ba Séminaires để nghiên cứu và học tập về những lĩnh vực mà trong chương trình đào tạo trước đây mình chưa được học sâu. Thầy Tạ Quang Bửu (chúng tôi thường gọi thân mật là anh Bửu tuy về tuổi tác thì Thầy vào hàng chú bác chúng tôi) hướng dẫn Séminaires về Lý thuyết tập hợp và Phép tính toán tử, thầy Lê Văn Thiêm hướng dẫn về Hàm phức, Lý thuyết biển đổi bảo giác và diện Riemann, anh Hoàng Tụy chủ trì séminaire về Hàm thực, Độ đo và Tích phân. Sinh hoạt trong các Séminaires này không những đã bổ sung cho chúng tôi những kiến thức rất cơ bản trực tiếp hổ trợ giảng dạy một số chuyên đề toán ở năm thứ ba (học kỳ 5) cho các ngành Ðiện - Điện tử, Cơ khí - Chế tạo máy mà còn gợi ý cho một số anh em trong những nghiên cứu sau này (anh Nguyễn Ðình Trí và anh Lê Thiện Phố về sau đi vào nghiên cứu về Phương trình đạo hàm riêng, anh Tạ Văn Đĩnh đi vào lĩnh vực các phương pháp sai phân trong Phương pháp tính, anh Nguyễn Hồ Quỳnh làm về Thống kê toán học, anh Trần Văn Hãn về Đại số trừu tượng còn tôi từ Lý thuyết Xác suất đi vào Lý thuyết thông tin và mã hóa…)
Nhưng thu hoạch lớn nhất của chúng tôi khi được làm việc dưới sự hướng dẫn trực tiếp của những bậc Thầy “lớn” là phương pháp nghiên cứu và tác phong làm khoa học, đây là một điều đã tác động rất sâu sắc đến mỗi người trong chúng tôi trong suốt cuộc đời học tập, giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Trong những ngày cuối khi sắp kết thúc séminaires, chúng tôi có trao đổi với các thầy về định hướng và lĩnh vực nghiên cứu phát triển tương lai của mình, anh Bửu đã nhắc nhở chúng tôi một câu mà bản thân tôi cũng như các anh em đã cố tìm hiểu ý nghĩa và luôn coi là một phương châm suốt đời cho sự học tập nghiên cứu của mình:
“Giải quyết một bài toán khó do người khác đặt ra cho mình thường đã là một việc rất gay go. Tuy nhiên chỉ khi nào mình tự đặt ra được những bài toán khó để giải quyết thì lúc đó việc “làm toán” mới thực sự có ý nghĩa. Các cậu nên nhớ rằng: Làm được một việc của mình, cho mình còn hơn làm được nhiều việc của người, cho người.”
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU TOÁN HỌC VÀ ỨNG DỤNG – TỪ THỰC TIỄN ĐẾN NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT
Cuối năm 1959, anh Hoàng Tụy ở Liên Xô (cũ) về gọi tôi và anh Nguyễn Bác Văn (ĐH Tổng hợp) giới thiệu và cung cấp cho chúng tôi tư liệu về
Với uy tín của mình, anh Tụy đã đề nghị Uỷ ban Khoa học Nhà nước (hồi đó do đồng chí Trường Chinh trực tiếp làm Chủ nhiệm, anh Bửu làm Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký) cho phép thành lập Tiểu ban Vận trù học tại ỦB Khoa học NN do anh Tụy là Trưởng tiểu ban, giao cho tôi và anh Nguyễn Quang Thái (sau này là GS TSKH – Viện trưởng Viện chiến lược kinh tế) làm phó Trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu lý thuyết và đặc biệt là mở rộng việc phổ biến kiến thức ứng dụng thống kê toán học và Vận trù học để huớng tới việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng toán học vào trong các ngành kinh tế quốc dân.vài lĩnh vực – hồi đó hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam - là Mô hình kinh tế ứng dụng Xác suất - Thống kê – Kinh trắc học hay sau này còn gọi là Kinh tế lượng (Econométrie) và Vận trù học (Calcul Opérationnel). Đấy là những lĩnh vực toán học có khả năng ứng dụng thực tế rất cao. Theo gợi ý của Anh Tụy, chúng tôi đã lập một Séminaire tự nghiên cứu về xác suất – thống kê toán học sinh hoạt tại ĐH Bách Khoa, do anh Bác Văn và tôi phụ trách, có sự tham gia của các anh Nguyễn Hồ Quỳnh, Lâm Khải Bình, cùng với các anh Nguyễn Quý Hỷ, Bùi Công Cường,... ở ĐH Tổng hợp và nhiều anh em ở nơi khác nữa.
Nòng cốt hoạt động trong Tiểu ban ngoài mấy anh em khóa 0 chúng tôi có những cán bộ giảng dạy trẻ từ khoá I, khoá II mới về Bộ môn Toán của ĐH Bách Khoa (các anh Phạm Xuân Ninh, Trần Tuấn Ðiệp, Đỗ Xuân Lôi, Vũ Long, Nguyễn Ðịch, Nguyễn Thế Hưng, Lý Hoàng Tú...), cùng các anh Trần Vũ Thiệu, Nguyễn Công Thuỷ,… ở ĐH Tổng hợp, Ngô Đạt Tứ ở báo Toán học và Tuổi trẻ. Tiểu ban đã Xuất bản tạp chí Toán Kinh tế và Vận trù học giới thiệu một số bài dịch các tư liệu gốc của Kantorovitch, Hakimi, Maranzana, Claude Berge... và đặc biệt là một số kinh nghiệm ứng dụng thực tế của vận trù học trong giao thông vận tải, trong công nghiệp, nông nghiệp,… ở Trung Quốc, cùng một số bài viết của anh em.
Sau một thời gian chuẩn bị, hè năm 1960 Tiểu ban Toán kinh tế và Vận trù học, Uỷ ban Khoa học Nhà nuớc, phối hợp với Trung ương Hội Phổ biến Khoa học và kỹ thuật Việt Nam “ra quân” một đợt công tác nghiên cứu ứng dụng đầu tiên rộng rãi trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố. Với sự chuẩn bị chu đáo về chuyên môn và về tổ chức, Bộ môn Toán ĐH Bách Khoa HN đã đảm nhiệm một lực lượng nòng cốt trong đợt ra quân đó và được giao phu trách 3 đoàn công tác tại Hà Nội (Nguyễn Hồ Quỳnh, Phạm Xuân Ninh), Hải Dương (Nguyễn Thế Hưng, Lý Hoàng Tú) và Hải Phòng (Lâm Khải Bình, Vũ Long), có sự tham gia của một số sinh viên khoá 4 mà sau này có hướng sẽ về công tác tại bộ môn.
Sau 3 tháng làm việc ở các địa phương, các đoàn công tác thu được một số kết quả cụ thể bước đầu, tuy còn khiêm tốn nhưng thực sự là lần đầu tiên việc ứng dụng toán học ở miền Bắc nước ta thu được kết quả thực – ra tiền – chứ không còn là những “lợi ích tính toán trên giấy” nữa.
Cụ thể điểm lại: tại Công ty Vệ Sinh Hà Nội - đề tài tối ưu hoá đường đi thu gom rác trong thành phố, tại Xí nghiệp Dược phẩm II Hà Nội - đề tài kiểm tra chất lượng sản phẩm thuốc và tối ưu hoá dây chuyền sản xuất, tại Hải Dương - đề tài tối ưu hoá phân phối gạo ở các nhà máy xay, kiểm tra chất lượng sản phẩm ở Nhà máy Sứ và nhất là ở Hải Phòng - Các đề tài phân phối lương thực trong thành phố, bài toán điều độ xe tải, xe khách, bài toán tổ chức đường đi vận chuyển nội bộ tối ưu cho khu vực Cảng Hải Phòng...
Kết thúc đợt công tác, bộ môn đã nhận được bằng khen của Bộ Giao thông Vận tải, UBHC Hải Phòng và giấy khen của nhiều cơ quan, đơn vị. Uỷ ban HC Hải Phòng đã quyết định cho thành lập Tiểu ban Vận trù học và Toán Kinh tế tại Ban KHKT thành phố, chính thức đề nghị bộ môn Toán ĐHBK đỡ đầu hoạt động.
Trong buổi họp tổng kết năm 1961 tại Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải lúc đó là Tướng Phan Trọng Tuệ đã nhiệt liệt biểu dương và cám ơn Tiểu ban Vận trù học - Toán kinh tế và hứa sẽ có chủ trương đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng toán học trong toàn ngành.
Được các đơn vị trong ngành báo cáo về những kết quả bước đầu đáng khích lệ, Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm hồi đó là đồng chí Ngô Minh Loan (nguyên Tướng Công an) đã trực tiếp gặp anh Tạ Quang Bửu - lúc đó vẫn đang kiêm nhiệm Hiệu trường ÐHBKHN - chính thức đề nghị bộ môn Toán đảm nhận một đề tài lớn và phức tạp của toàn ngành: Quy hoạch mạng lưới hệ thống nhà máy xay và kho thóc ở đồng bằng Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hà Bắc, Hải Phòng, Hà Tây... và lân cận). Trong mấy năm liên tiếp vào các dịp nghỉ hè và những dịp có thể bố trí được, bộ môn và ban Hỗ trợ NCKH của bộ môn đã bố trí một số cán bộ (Ðỗ Xuân Lôi, Dương Viết Thắng, Phạm Xuân Ninh, Nguyễn Tài Hào, Ngô Thế Khánh...) đi nắm tình hình thực tế có khi hàng hai, ba tháng trời tại các địa phương.
Chính qua thực tế những đề tài ứng dụng cỡ lớn như vậy, chúng tôi bắt đầu thấm thía ý kiến chỉ đạo của anh Bửu hồi năm sáu năm về truớc: thực tế đang đặt ra cho chúng tôi những vấn đề mà chúng tôi phải tự xây dựng thành những bài toán để tự mình tìm cách giải.
Tổ công tác Vận trù học ĐHBK tại Hải Dương – 1962: Thái Thanh Sơn – Lê Minh Châu – Nguyễn Văn Ba
Thu hoạch không chỉ dừng lại ở việc ứng dụng một số mô hình toán học sẵn có vào thực tế mà chính thực tiễn đã gợi ý cho chúng tôi một số đề tài nghiên cứu lý thuyết khá hóc búa cần giải quyết. Một số bài thông báo nghiên cứu đầu tiên của Tô Xuân Dũng, Thái Thanh Sơn, Phạm Xuân Ninh lần lượt được đăng trên Nội san Toán - Lý của trường, trên tạp chí Toán kinh tế và Vận trù học và tiếp đó là trên Tập San Toán - Lý và Tập san Toán học của UB Khoa học NN, những tạp chí uy tín nhất của ngành toán ở Việt Nam thời đó. Những bài toán đó cũng là khởi nguốn cho các đề tài luận án Phó Tiến Sĩ của Phạm Xuân Ninh – Bài toán vận tải n chỉ số với p lần lấy tổng, của Thái Thanh Sơn – Lý thuyết đồ hình metric có trọng số. được bảo vệ trong nước hay đề tài luận án của Nguyễn Ðịch – Qui hoạch tối ưu lồi được bảo vệ ở Tiệp Khắc về sau.
Chính nhờ những kinh nghiệm tích lũy được ở Bộ môn Toán ĐHBK trong gần 10 năm mà đến năm 1966, khi 3 anh em chúng tôi: Thái Thanh Sơn, Nguyễn Quảng và Ngô Quang Minh được biệt phái sang công tác tại Học viện kỹ thuật quân sự - hồi đó lấy bí danh là Phân hiệu II Đại học Bách Khoa, không những chúng tôi đã đóng góp đáng kể vào công tác giảng dạy và tổ chức giảng dạy của trường mà trong mội trường mới, khi được đề nghị, chúng tôi mạnh dạn tham gia không hề bỡ ngỡ góp phần thực hiện thành công ngay một số đề tài ứng dụng toán học trong nhiều lĩnh vực quốc phòng mà từ truớc đến nay chưa có điều kiện tiếp xúc (đặc biệt là những đề tài về giao thông Vận tải quân sự trên đuờng mòn Hồ Chí Minh 559).
Đoàn công tác Vận trù học phối hợp ĐH Bách Khoa & ĐH Tổng hợp – 1961/1962 Nguyễn Thúy, Thái Thanh Sơn, Nguyễn Trọng Trực, Phạm Xuân Ninh, Nguyễn Địch, X (?).
Nguyễn Văn Ba, Vũ Long, Lý Hoàng Tú, Lê Minh Châu
Trở về trường, Chúng tôi đã tiếp tục nghiên cứu phối hợp với Tổng cục Hậu Cần quân đội (hồi đó chưa tách riêng Tổng Cục Kỹ thuật) và một số Quân khu. Bộ Tư lệnh địa phương: Hải Phòng, Quân khu V, Quân khu IX, suốt trong những năm l968-69 cho đến sau ngày giải phóng miền Nam 1978 - 79. Nhiều đồng chí trong bộ môn như Ngô Thế Khánh, Nguyễn Định Thành... đã cùng tôi được Trung tướng Nguyễn Chánh, Tư lệnh QK IX rồi chủ nhiệm TC Hậu Cần đề nghị nhà trường và Bộ Ðại học cho biệt phái sang Tổng Cục Hậu Cần Bộ Quốc phòng, đã lăn lộn hàng tháng trời từ Hải Dương, Hải Phòng ở miền Bắc rồi Đà Nẵng, Cù lao Thu, đảo Lý Sơn, lên Chư Sê, Pleiku, Kontum ở Tây Nguyên, sang cả nước bạn Lào vào đến tận Cần Thơ, Rạch Giá, Hà Tiên và biên giới Tây-Nam... để lấy thông tin, điều chỉnh các tham số trong những bài toán cụ thể và kiểm tra các phương án thực hiện thí điểm. Được Tổng cục Hậu cần đánh giá cao, tặng bằng khen và gửi thư báo công về Bộ Đại học và Nhà trường là những đề tài quan trọng: Mạng lưới xí nghiệp vật liệu xây dựng phục vụ quốc phòng ở quân khu V và Quân khu IX, Bố trí hệ thống đảm bảo liên lạc và hậu cần phục vụ chiến đấu ở QK IX và biên giới Tây Nam... Những kết quả cụ thể rất sinh động và lý thú của các đề tài này không được phép công bố rộng rãi nhưng từ đó tôi đã hoàn thành hai bài báo đăng trên Tạp chí Toán học: "Kênh thông tin đáng tin cậy nhất – The most reliable communication chanel” và “Cấu trúc phân cấp tối ưu của một hệ thống có tôn ti – Optimal structure of a hierarchic system” về sau sử dụng trong luận án TS của tôi.
Truớc giải phóng miền Nam những năm l97l - 72 cũng có rất nhiều kỷ niệm với anh em làm Toán ứng dụng trong bộ mộn.
Năm l971, lụt lớn làm vỡ đê Cống Thôn ở Bắc Cầu Đuống. Hàn khẩu đê và khắc phục lũ lụt là một nhiệm vụ trọng tâm của mọi ngành, mọi cấp, của cả toàn dân, của cả miền Bắc trong thời kỳ đó: Phải nhanh chóng hàn khẩu trước ngày Quốc khánh 2/9 trong tình hình nước lũ đang lên, để cho hàng vạn dân trong vùng lũ ở 3 tỉnh Hà Bắc, Hưng Yên, Hải Dương kịp thời làm vụ mùa.
Trường ĐHBK lúc đó trở thành một một công trường lớn, các khoa kỹ thuật đảm nhận khôi phục, bảo dưõng hàng trăm tấn thiệt bị, máy móc bị hư hỏng do ngập lụt từ nhiều nơi đưa về, sân vận động Bách Khoa là công trường đan hàng nghìn lồng dây thép để chuyển sang công trường đổ đầy đá hộc vào tạo thành những con rồng đá ném xuống nước để hàn khẩu chỗ đê vỡ.
Ngoài việc tham gia dân công hộ đê như mọi người dân trong thành phố, chúng tôi rất băn khoăn, làm sao có thể đóng góp vào nhiệm vụ chung, không phải chỉ dùng cơ bắp mà còn dùng đến đầu óc, đóng góp bằng chuyên môn của mình như các khoa khác trong trường? Bộ môn Toán đã đề xuất với Nhà trường, Bộ Đại học, Thành phố Hà Nội và Ban Chỉ huy công trường, cử một tổ công tác Vận trù học gồm 5 người phối hợp với 3 người ở ĐH Tổng hợp, sang đề nghị tham gia công trường T80, bí danh của công trường hàn khẩu đê Cống Thôn do tướng Phạm Hồng Sơn làm chỉ huy trưởng và Phó Thủ tướng Ðỗ Mười làm Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước.
Ban đầu Ban chỉ huy công trường tiếp nhận chúng tôi, thấy giới thiệu là cán bộ giảng dạy ngành Toán ở 2 trường Đại học thì bố trí về hỗ trợ cho bộ phận kế toán của công trường theo dõi thống kê hàng ngày – bộ phận này thực ra cũng rất nhiều việc.
Chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành phân công nhưng mặt khác chú ý tìm hiểu, theo dõi tình hình. Sau mấy ngày quan sát tỉ mỉ, anh em trong tổ đã nắm bắt được những vấn đề chính đang đặt ra. Phạm vi khu vực công trường từ Ô cách đến Cầu Đuống chỉ khoảng 3km, rất chật chội mà suốt ngày đêm 24 tiếng có gần 300 xe tải, máy ủi, cần trục đi lại 2 chiều, chen chúc với trên 3000 bộ đội, dân công nên tốc độ thi công rất chậm. Phó thủ tướng Đỗ Mười thay mặt chính phủ, cho phép Công trường quyền ưu tiên cao nhất: thiếu người, điều người , thiếu phương tiện vật tư điều ngay phương tiện vật tư… Thế nhưng càng nhiều xe nhiều người thì tốc độ thi công không tăng lên mà có phần giảm xuống. Trong một buổi giao ban Tổ Vận trù học đã đề xuất một giải pháp cụ thể - dựa theo thuật toán Ford – Fulkerson trong lý thuyết về luồng cực đại. Tất nhiên khi trình bày thì không đao to búa lớn gì cả mà chỉ nêu cụ thể: Mạnh dạn: Giảm số xe, máy và nhân công xuống chỉ còn 80%, tạo đường vòng 1 chiều dài hơn tuyến đường thi công đi về hiện có đến 60% nhưng toàn tuyến chỉ đi theo 1 chiều, xe nhận vật liệu đi đến trạm cần cẩu trút vật liệu xong đi tiếp vòng về theo đường khác. Các xe tải có thể vừa đi với tốc độ chậm vừa nhận và trút vật liệu trên cả một đoạn dài mà không ngừng hẳn lại. Giải pháp của anh em trình bày trong buổi giao ban hàng ngày khá đột ngột, nhất là ý kiến giảm số xe và người hoạt động trên công trường. Tuy nhiên tướng Phạm Hồng Sơn là người tinh tế và khá quyết đoán nên đã đề nghị Phó thủ tướng Đõ Mười cho thí điểm trong 3 ngày. Quả nhiên thực hiện thí điểm có kết quá rất tốt, năng suất cao vọt hẳn lên. Ngay sau đó tổ công tác đã được Ban chỉ huy quyết định cho tham gia vào Phòng Tham mưu của công trường, phụ trách công tác điều độ kế hoạch.
Phải thấy tình hình khẩn trương chạy đua với thời vụ trên một công trường với diện tích vài ba km2, tập trung một lực lượng lao động vài nghìn dân công và hai Sư đoàn quân đội với hơn 300 xe tải, máy móc thiết bị... mới hình dung sự phức tạp của công tác điều độ kế hoạch lúc đó..
Kết thúc chiến dịch, bộ môn Toán và một đồng chí cán bộ trong bộ môn được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, một đánh giá xứng đáng của Nhà nước. Điều này càng làm cho chúng tôi tin tưởng thêm vào khả năng ứng dụng toán học vào thực tế của mình.
Sang đầu năm 1972, một số dự án nghiên cứu khoa học được đề xuất trong đó có đề tài Chính sách phát triển năng lượng toàn quốc trong thời kỳ 5 năm sau khi chiến tranh kết thúc (Có lẽ ngay từ hồi đó Trung ương đã có những tiên lượng về khả năng chấm dứt chiến tranh trong thời gian không xa). Một điều khá lý thú là ở miền Nam lúc đó, chính quyền Sài Gòn cũng tiến hành một đề tài hoàn toàn tương tự do hai học giả nổi tiếng chủ trì tên là: “Chương trình Lylianthal – Vũ Quốc Thúc về phát triển năng lượng ở Việt Nam thời hậu chiến”.
Ðể tiến hành dự án, Nhà nước quyết định thành lập tại Bộ Ðiện và Than một tổ chức lấy tên là Phân Viện Năng lượng do PTS Nguyễn Văn Bình làm Phân Viện trưởng. Ngoài một số kỹ sư, chuyên viên của Bộ Điện và Than và của UB Kế hoạch Nhà nước, các chuyến gia phụ trách các mảng chủ yếu của đề tài đều là Cán bộ giảng dạy của Ðại học Bách Khoa Hà Nội như các anh Tăng Thiên Tư ở bộ môn Phát dẫn diện, anh Nguyễn Mạnh Nguyên ở bộ môn Kinh tế năng lượng... tôi và anh Nguyễn Hồ Quỳnh được mời chủ trì mảng đề tài dự báo nhu cầu và khả năng phát triển ngành điện và ngành than.
Ðược cùng làm việc với những chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật (anh Tư và anh Nguyên đều vừa mới tốt nghiệp ở nước ngoài về mang theo nhiều tư liệu và công cụ khoa học mà đối với chúng ta thời bấy giờ là vô cùng quý giá, anh Nguyên mang về Chương trình giải bài toán qui hoạch tuyến tính và qui hoạch động cỡ lớn viết bằng Fortran chạy trên MTÐT Minsk 32, anh Tư mang về một loạt phương pháp dự báo kinh tế kỹ thuật trong ngành điện của Liên Xô...), chúng tôi đã học tập được rất nhiều và vẫn cố gắng tìm tòi cải tiến để đề xuất ra những phương pháp mới phù hợp hơn với điều kiện Việt Nam. Trong quá trình tham gia đề tài này, tôi, anh Tăng Thiên Tư và anh Nguyễn Hồ Quỳnh đã viết chung được ba bài báo đăng trên Tạp chí Khoa học kỹ thuật của UB Khoa học Nhà nước về “Nghiên cứu về các phương pháp dự báo mô hình Markov theo chuỗi thời gian” , “Phương pháp phân tích tương quan trong lý thuyết dự báo kinh tế - xã hội 1 - 2” Tiếp sau đó, cũng chính do tham gia đề tài này, từ những ý kiến đề xuất của Lylianthal về các quan sát “tương tự” tôi đã phát hiện và sau này tiếp tục đi sâu vào lĩnh vực “Dự báo các yếu tố không định lượng”, bản báo cáo của tôi tại Hội nghị quốc gia lẩn thứ nhất về Dự báo kinh tế - Xã hội - Hà Nội, 1981, có lẽ là công trình đầu tiên ở Việt Nam đề cập đến việc tiếp cận lĩnh vực các “thông tin mờ” bằng hai phương pháp: Phương pháp dùng tương quan hạng (Rank Correlation) theo Kendall và Spierman và đặc biệt là phuơng pháp tiếp cận bằng tỷ số thông tin (information ratio) do tôi đề xuất. Lý thuyết này sau đó đã được sử dụng rất có hiệu quả trong các đề tài “Nghiên cứu về tai nạn lao động” tại Viện Khoa học Bảo hộ Lao động (1982) và đề tài “Nghiên cứu thị hiếu thị trường” tại Viện Khoa học Bộ Thương mại (1987).
Trong thời gian được cử sang giảng dạy tại Đại học Bách Khoa Antananarivo và Antsiranana ở Madagascar tôi cũng đã nhận hướng dẫn thành công hai nghiên cứu sinh bậc Docteur 3me cycle với hai đề tài: “Hệ thống p – trọng tâm của đồ hình có trọng số ở đỉnh” và “Phân tích tương tự bằng quan hệ tỉ số thông tin“, được các giáo sư phản biện Pháp hâm mộ và đánh giá cao.
PHÁT HUY TÁC DỤNG TRONG NGÀNH
Không những chỉ hoàn thành nhiệm vụ trong Trường, Bộ môn Toán ĐHBK còn phát huy tác dụng mạnh mẽ đối với các Trường bạn.
Từ năm 1958, sinh viên khóa 1 của Đại học Bách Khoa đã lên năm thứ hai, khối lượng giảng dạy Toán tăng lên, số lượng 12 giảng viên không đáp ứng nổi.
Không thể trông chờ lực lượng bổ sung từ bên ngoài, nhà trường mạnh dạn quyết định chuyển một số sinh viên giỏi Toán thuộc các Khoa chuyên ngành của Khóa 1, Khóa 2 lên làm việc ở Bộ môn và đào tạo tiếp về Toán để chuẩn bị làm cán bộ giảng dạy Toán. Tiêu chuẩn lựa chọn rất khắt khe: Phải là sinh viên đạt điểm 5 trong cả 4 kỳ học Toán (hồi đó cho theo thang điểm Liên Xô điểm 5 – ОТИЧНЫЙ – là điểm tuyệt đối).
Trong đợt tuyển chọn này Khóa 1 có Phạm Xuân Ninh (về sau bảo vệ PTS trong nước), Dương Thủy Vỹ (TS ở Hung ga ry), Nguyễn Thế Hưng (sau về làm Tổ trưởng BM Toán ở ĐH Xây dựng). Trần Tuấn Điệp (PGS đặc cách)… Khóa 2 có Nguyễn Văn Ba (TS ở Ba Lan, PGS), Đỗ Xuân Lôi (PGS đặc cách), Nguyễn Trọng Thái, Nguyễn Địch (TS ở Tiệp Khắc, chuyển về làm Viện phó Viện Toán Kinh tế của Ủy ban kế hoạch Nhà nước rồi làm Thư ký trợ lý cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt), Đinh Xuân Bá (PGS đặc cách, chuyển sang kinh doanh) và một số khác.
Điều vui là các anh này đều sẽ được Nhà trường cấp bằng Kỹ sư theo ngành đã học vào năm mà các bạn cùng khóa tốt nghiệp. Thành ra các anh ở khóa 1 như anh Điệp, anh Hưng, anh Ninh thì công tác từ 1959 nhưng đến 1961 mới nhận bằng tốt nghiệp “kỹ sư VTĐ, Xây dựng, Cơ khí v..v..” còn các anh Ba, anh Thái, anh Lôi thì mãi đến 1962 mới có bằng kỹ sư!
Năm 1960, với sự bổ sung của các đổng chí khóa I, khoá II, bộ môn đã đông hơn nhiều, ngoài việc tổ chức các lớp bồi dưỡng chính thức thường xuyên cho cán bộ mới trong khoa Bộ môn Toán chính thức thành lập hai tổ chức: Ban Hỗ trợ giảng dạy do Tô Xuân Dũng làm trưởng ban và Ban Hỗ trợ nghiện cứu khoa học do Thái Thanh Sơn làm trưởng ban.
Bộ môn tổ chức việc bồi dưỡng cán bộ mới rất nghiêm chỉnh. Về lý thuyết, tổ chức giảng dạy một số chuyên đề cơ sở chính cần thiết nhất về Toán mà trong chương trình 2 năm đầu của ĐHBK chưa được học: Đại số và lý thuyết tập hợp do Tô Xuân Dũng giảng, Phương trình Toán Lý do Nguyễn Đình Trí, Hàm phức và Phép tính toán tử do Thái Thanh Sơn, Hàm thực và độ đo do Tạ Văn Đĩnh v..v… Về thực tập giảng dạy: các anh em đó được phân công chữa bài tập do một số giảng viên cũ giảng lý thuyết kèm cặp (theo đúng mô hình enseignat – assistant của Pháp). Được tổ chức tốt cộng với trình độ sẵn có và sự cố gắng bản thân, 2 năm sau tất cả đều đã trở thành những giảng viên vững vàng đứng lớp.
Trên cơ sở kinh nghiệm thành công đó, năm 1962, nhà trường tiếp tục tuyển chọn một số sinh viên khóa 4 hoc xong 2 năm cơ bản lên tiếp tục bồi dưỡng thành giảng viên Toán như các anh: Lý Hoàng Tú, Phan Tăng Đa, Vũ Lục, Đào Nguyên Kim, Nguyễn Đình Thành, Đinh Văn Khải, Nguyễn Văn Hộ,v..v..
Do uy tín đào tạo và bồi dưỡng của Bộ môn, trường Đại học Thái Nguyên khi mới thành lập cũng gửi về 4 cán bộ để được tham gia bồi dưỡng (học Lý thuyết và chữa bài tập).
Trường Đại học Tài chính (sau là Học viện Tài chính) còn đề nghị Trường ĐHBK biệt phái anh Lê Minh Châu sang làm tổ phó Bộ môn Toán trong 2 năm đầu để giúp xây dựng Bộ môn.
Đặc biệt phải nói đến sự đóng góp của Bộ môn Toán nói riêng và trường ĐHBK nói chung cho việc xây dựng Học viện Kỹ thuật quốc phòng.
Năm 1965, trước tình hình phát triển ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập một cơ sở đào tạo bậc đại học trong kĩnh vực kỹ thuật quốc phòng. Để đảm bảo bí mật, trường đó lấy bí danh là Phân hiệu II Đại học Bách Khoa, có địa điểm giao dịch ban đầu là một dãy nhà cấp 4 trong khu ký túc xá ĐHBK.
Phân hiệu II Bách Khoa dự định chính thức khai giảng vào tháng 10/1966 (sau ĐHBK đúng 10 năm). Cán bộ lãnh đạo phân hiệu và cán bộ khung đều đã có. Cơ sở vật chất thì hồi đó sơ tán ở nông thôn, cũng không có gì khó khăn hơn các trường đại học khác. Sinh viên được nhanh chóng tuyển từ lực lượng chiến sĩ trẻ tốt nghiệp Trung học phổ thông mới nhập ngũ Mọi điều đề sẵn sàng… chỉ thiếu… thầy! (Trước mắt là thầy dạy các môn học cơ bản và tiếng Nga)
Khi đó Thầy Tạ Quang Bửu đã thôi thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và cũng thôi Hiệu trưởng ĐH Bách Khoa, chuyển sang làm Bộ trưởng Bộ Đại học và TH chuyên nghiệp. Nhưng tất nhiên Thầy vẫn có uy tín rất cao cả ở Bộ Quốc phòng và ở Trường ĐH Bách Khoa.
Gặp mặt năm 2014 của một số người còn lại trong đoàn giảng viên Toán, biệt phái sang Phân hiệu II ĐHBK 1966/1968
Rất tính cờ, một buổi tối, tôi đến nhà Thầy Bửu ở phố Hoàng Diệu để hỏi ý kiến về một bài báo mà tôi sắp gửi đăng trên Tập san Toán Lý (Thầy đối với tôi vừa như là Thầy vừa như là cha chú cho nên cũng khá tùy tiện). Đang nói chuyện thì thấy chuông cửa, tôi ra mở cửa, bỗng giật mình khi thấy… Đại tướng Võ Nguyên Giáp bước vào! (Vườn sau nhà đại tướng có lối thông sang khu nhà Thầy Bửu ở cùng với tướng Vương Thừa Vũ, các nhà qua lại với nhau không cần ra đường qua cửa bảo vệ). Tôi lúng túng - thực ra hồi ở Dự bị đại học tôi học cùng các chị Anh ĐàoThanh Lê, em của phu nhân đại tướng, rồi hồi 1955, 56 mới về Hà Nội tôi còn hay đến nhà Cụ Đặng Thai Mai đọc sách nhờ nên cũng không hoàn toàn lạ lẫm gì - thế nhưng… vẫn ngại ngùng. Thầy Bửu cười ha hả nói : “Cậu này đang dạy toán ở Bách Khoa đấy mà!” . Đại tướng vỗ vai tôi hiền hậu : -“Bách Khoa hả? Toán hả? Tốt! Tốt!”. Tôi cũng chẳng biết làm gì, tại sao mà bách khoa hả, tốt tốt hả! Nhưng biết thân biết phận tôi chuồn ngay vào nhà trong để các vị đàm đạo. (Con trai Thầy là Tạ Quang Chính cũng học ở Khoa Toán ĐHBK nên tôi khá thân thuộc với gia đình Thầy). Một lúc sau khách đi rồi Thầy Bửu gọi tôi lên tủm tỉm cười: -“Sang làm việc bên bộ đội ít lâu nhé”. Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả.
Nhưng chỉ đến tuần sau chúng tôi nhận được quyết định của Liên bộ Quốc phòng – Đại học, điều động biệt phái sang giảng dạy ở Phân hiệu II. Đoàn cán bộ giảng dạy của Bộ Đại học sang gồm gần 20 người chủ yếu là cán bộ ĐHBK: Toán có 3 người là tôi, Nguyễn Quảng và Ngô Quang Minh, Vật lý có anh Phạm Cương, Nga văn có Lều thị Thụy và Trần Định, Hình họa có Nguyễn Khắc Viên, Hóa dại cương có Nguyễn Như Ý, v..v.. và một vài người nữa tôi không nhớ hết; sau thêm mấy anh ở ĐH Tổng hợp như Tửu, Điệp và Phúc…đều là dân Toán (anh Phúc sau ở lại lâu dài, là đại tá PGS. TS. Chủ nhiệm Khoa Toán Tin của HV Kỹ thuật quân sự).
Tôi được cử là Trưởng đoàn, anh Tửu là đòan phó, anh Viên là chính trị viên.
Tôi trực tiếp giảng dạy ở D2 – Khoa Điện tử Viễn thông. Khoa này có sinh viên mới tuyển năm thứ nhất – khóa 1966 – nhưng lại có cả năm thứ hai: thì ra là một số sinh viên khoa VTĐ K9 của ĐHBK chuyển tiếp sang: lại gặp học trò cũ của mình.
Chúng tôi vừa trực tiếp giảng dạy, vừa hướng dẫn giúp đỡ cho một số cán bộ giảng dạy mới của phân hiệu. Ngoài ra tôi và anh Viên anh Tửu còn được đề nghị hỗ trợ công tác cho các cán bộ phòng huấn luyện (giáo vụ) và thường xuyên được các đồng chí Phụ trách phân hiệu tham khảo ý kiến trong nhiều vấn đề về đào tạo và tổ chức giảng dạy, học tập.
Thời gian biệt phái của chúng tôi chỉ trong vài năm, thế nhưng mấy chục năm qua rồi mà các khóa lãnh đạo và học viên vẫn còn giữ lại những kỷ niệm rất tốt đẹp. Trong tập kỷ yếu 40 năm thành lập HV KT QS còn có bài viết chứa chan tình cảm đối với các thầy Toán ĐHBK.
Năm 2001 Học viện Kỹ thuật quân sự đã đề nghị và được Bộ quốc phòng tặng kỷ niêm chương 35 năm công tác cho tôi và anh Nguyễn Khắc Viên.
Hai năm là bấy nhiêu ngày.
Mà sao tình nghĩa đến nay vẫn bền!
*
* *
Phải nói rằng, tín nhiệm của bộ môn Toán đối với các cán bộ kỹ thuật và các trường đại học công nghệ trong cả nước, trước tiên là do sách và các tài liệu giảng dạy mà cán bộ trong Bộ môn đã biên soạn và được phổ biến trong cả nước.
Năm đầu tiên về trường, thấy được nhu cầu cấp bách về giáo trình nhưng chúng tôi chưa dám mạnh dạn tự mình viết giáo trình nên toàn bộ môn thống nhất dịch một giáo trình từ tiếng Nga. Nhưng chọn giáo trình nào? Mọi người đều nhất trí chọn quyển I trong bộ Giáo trình giải tích đồ sộ của Viện sĩ Hàn lâm V. I. Smirnov. Sách của Viện sĩ hàn lâm thì chắc chắn là hay còn gì! Tách quyển I làm 13 phần chia nhau dịch, xong rồi rà soát, hiệu đính và đưa xuất bản.
Mọi việc làm xong trong 3 tháng trước khi trường khai giảng khóa học đầu tiên.
Nhưng khi bắt tay vào soạn bài giảng thì mới phát hiện ra là : không thể giảng được theo cụ Smirnov cho sinh viên đại học kỹ thuật, nhất là với cơ sở toán học bậc phổ thông của chúng ta lúc đó: Thế là công toi mấy tháng.
Năm 1958 Liên Xô cử một chuyên gia là PGS Gregorian, người Armenia giảng viên Đại học Erevan, sang hỗ trợ viết giáo trình. Ông này rất vui tính và hòa nhập với anh em nhưng nhất thiết mỗi tuần chỉ viết 2 bài giảng (4 tiết), có phiên dịch dịch ra rồi in roneo cho chúng tôi sử dụng. Vì cậu phiên dịch rất trẻ và trước khi học tiếng Nga chỉ có trình độ cấp 2 nên rất lúng túng đối với các thuật ngữ toán học, nhiều khi làm chúng tôi cười rũ rượi. Chẳng hạn dịch Matematicheskyi Analyz là Toán học phân tích, Teoria Mnojestva là học thuyết đám đông v..v.. nghĩa là không xài được! Chúng tôi lại phải tự dịch lấy, phiên dịch sau này chỉ làm nhiệm vụ sinh hoạt vui vẻ..
Sau một học kỳ “ăn đong” hàng tuần, thấy phụ thuộc rất bị động, mặt khác bắt đầu tự tin hơn, chúng tôi quyết định tự lực cánh sinh, bài viết của chuyên gia để “tham khảo” thôi. Chúng tôi bàn nhau tìm số tư liệu của Liên Xô về Toán cho các trường kỹ thuật, phối hợp với các giáo trình giải tích của Pháp mà chúng tôi đã quen thuộc để tự soạn bài giảng cho mình. Sau khi dạy xong một vòng đến hè năm học 1958 -1959 phân công nhau: Thái Thanh Sơn , Tô Xuân Dũng và Hoàng Công Tín viết Giáo trình Giải tích Toán học (cho ĐH Kỹ thuật) gồm 2 tập và Trần Văn Hãn – Nguyễn Hồ Quỳnh viết Giáo trình Hình học giải tịch. Hai giáo trình được Nhà xuất bản Khoa học & Kỹ thuật xuất bản năm 1961 và ngay lập tức được tái bản. Cuối năm, quyển Giáo trình Giải tích toán học được nhà xuất bản trao Giải thưởng: “Tài liệu được người đọc yêu thích nhất trong năm”. Hai bộ sách trở thành giáo trình gần như chính thức đối với nhiều cơ sở đào tạo kỹ thuật, đồng thời cũng được dùng tham khảo cho nhiều người công tác kỹ thuật trong cả nước.
Anh Nguyễn Đình Trí lúc đó mới bảo vệ PTS ở Liên Xô về nước, đề xuất với Bộ Đại học và THCN cho viết một bộ giáo trình “chuẩn” về Toán học cho kỹ thuật – sử dụng cho tất cả các trường ĐH công nghệ. Để có tính “đại diện”, Ban biên tập không thể chỉ toàn giảng viên ĐHBK mà phải có đại diện của trường khác, tất cả gồm 6 người: Tạ Ngọc Đạt (ĐH Giao thông), Tạ Văn Đĩnh (ĐHBK), Ngô Đình Hiền (ĐH Kinh tế), Nguyễn Đình Hiền (ĐH Nông Lâm), Thái Thanh Sơn (ĐHBK) và Nguyễn Đình Trí (ĐHBK) làm chủ biên.
Bộ giáo trình này được sửa chữa, tái bản nhiều lần và trong hàng chục năm đã thành một tài liệu học tập quá quen thuộc đối với sinh viên và kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trong cả nước.
Từ năm học 1958 -1959 trường ĐHBK bắt đầu tổ chức hệ đào tạo phi chính qui, lúc đầu gọi là “đại học buổi tối”. Chuyện vui vui. Hồi đó kỷ luật trong trường rất nghiêm, cán bộ , sinh viên ra vào qua cổng bảo vệ đều phải đeo một cái thẻ trên ngực áo. Thẻ hình chữ nhật chỉ có dòng chữ : ĐẠI HỌC BÁCH KHOA, có phân biệt là cán bộ, nhân viên và giảng viên đeo thẻ nền đỏ, sinh viên đeo thẻ nền xanh còn sinh viên tại chức, buổi tối đeo thẻ nền…đen.
Thời đó sinh viên tại chức – có chức thật đang tại – rất có ý thức, học hành nhưng tuổi phần lớn đã khá cao kiến thức cơ bản rất thiếu. Vì vậy dùng giáo trình “chuẩn” để dạy cho họ có gặp khó khăn, anh Dương Thùy Vỹ lúc đó được phân công theo dõi giảng dạy khối tại chức, đã bàn với tôi và anh Nguyễn Thế Hưng viết lại một bộ Giáo trình Toán học cao cấp – dùng cho hệ đào tạo tại chức và đưa xuất bản. Nếu như trong các giáo trình trước trình bày chủ yếu theo kiểu “hàn lâm” kiểu giáo trình Liên Xô cũ thì trong bộ sách này tôi đề nghị viết theo kiểu dẫn dắt phóng khoáng hơn theo các giáo trình mới của Pháp. (Về sau tiếp xúc với tư liệu Anh, Mỹ… thì mới thấy là cách viết của mình cũng hao hao theo kiểu của họ). Bộ sách này được xuất bản và ngay lập tức được hoan nghênh, kể cả sinh viên chính qui các trường bạn cũng tìm sử dụng.
Cũng một phần vì những bộ sách của bộ môn Toán ĐHBK biên soạn mà tiếng vang của bộ môn và các giảng viên trong bộ môn lan xa ra khắp cả nước. Sau này tôi gặp rất nhiều người, tôi không hề quen biết họ nhưng khi nghe giới thiệu tên thì họ cứ tự nhận là học trò các thầy: Thầy Sơn, Thầy Trí, Thầy Đĩnh v..v…
Sướng thật! Sướng rơn!
*
* *
Thế mà 60 năm đã trôi qua!
Cùng với đất nước ta, trường Ðại học Bách Khoa Hà Nội và khoa Toán - Tin ứng dụng thân yêu của chúng ta đã có những bước trưởng thành vượt bậc đáng tự hào!
Trường ĐHBKHN và Viện Toán ứng dụng và Tin học đã thành một địa chỉ đào tạo và nghiên cứu khoa học có tín nhiệm, không phải chỉ trong cả nước mà còn ở phạm vi rộng lớn hơn trên trường quốc tế. Những năm sau này, điều kiện giao lưu quốc tế của chúng ta được mở rộng, trong những dịp tiếp xúc và làm việc với bạn bè khoa học quốc tế ở Việt Nam hay ở nước ngoài khi tôi nhắc đến tên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Viện Toán ứng dụng và Tin học ĐHBK HN, người ta đều dành cho chúng ta một sự mến mộ và trân trọng. Mở tra cứu trên một công cụ tìm kiếm bất kỳ - Google, Yahoo, Alta Vista... - đều dễ dàng tìm được tên và công trình công bố mới của một số anh em trong khoa. Đạt được thành tích đó, vị thế đó cho ngày nay là do sự bền bỉ và liên tục đóng góp công sức trong quá trình tự lực cánh sinh vươn lên của toàn thể anh chị em nhiều thế hệ chúng ta, từ thế hệ đi đầu như các anh Tạ Văn Đĩnh, Nguyễn Ðình Trí, Tô Xuân Dũng, Lê Minh Châu, qua thế hệ các anh Nguyễn Văn Hộ, Lê Trọng Vinh, Tống Đình Quỳ, Phan Trung Huy đến các bạn trẻ thông minh, tài giỏi đầy sức sống hiện nay.
Nhìn thấy các bạn ngày nay mà chúng tôi vừa ghen tị vừa tự hào.
Ghen tị là vì thấy các bạn đã được đào tạo, chuẩn bị hành trang vào đời đầy đủ quá, điều kiện học tập, nghiên cứu khoa học của các bạn ngày nay tốt đẹp quá – tất nhiên chưa thể so sánh với INPG hay Paris VII… của Pháp, Oxford, Cambridge... của Anh, MIT hay Harvard… của Mỹ, thậm chí với cả Chulalongkom, Thammasat... của Thái Lan, NUT, NUS... của Singapore hay Bắc Ðại, Thanh Hoa... của Trung Quốc - nhưng đối với thời chúng tôi đã là điều ngoài mơ ước.
Chúng tôi thường tự gọi mình là thế hệ “trí thức TIỀN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN” đấy, thật là tủi thân! Tuy vậy chúng tôi lại rất tự hào!
Tự hào là vì từ trong những khó khăn thiếu thốn về mọi mặt (mà ngày nay các bạn trẻ không thể nào hình dung nổi) hoàn toàn với nỗ Iực bản thân của mỗi cá nhân, với sự đoàn kết thương yêu nhau trong bộ môn, chúng tôi đã đứng vững trong những ngày đầu trên cương vị của mình và đã xây dựng được nền móng vững chắc, gây dựng tín nhiệm xã hội đối với ngành Toán Ðại học Bách Khoa Hà Nội trong giảng dạy, trong nghiên cúu khoa học và đặc biệt trong lĩnh vực ứng dụng để chuyển giao lại cho các bạn trẻ ngày nay tiếp tục xây dựng ngày mới phát triển hơn, ngày càng vượt xa, xa hẳn thời chúng tôi!
THÁI THANH SƠN
Hà Nội, những ngày đầu năm 2006
Hiệu chỉnh và bổ sung, Tháng 8 năm 2016