27/03/2016 13:35 1313
Điểm: 3.25/5 (4 đánh giá)
Khu C một thuở dễ đâu quên

Hoài niệm nhân dịp kỉ niệm 50 năm thành lập trường Đại học Bách Khoa Hà Nội Lương Văn Phúc

               Vâng, xin lấy một ý thơ của GS Nhà giáo Ưu tú Lương Duyên Bình làm đề tựa cho bài viết này.

               Tháng O1-1969, đế quốc Mỹ phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 19 trở vào - để bước tới bàn đàm phán hoà bình chúng tôi những sinh viên K11, K12. K13 - những khoá đầu tiên và cuối cùng sống, học tập, 1ao động tại Khu C, rộn dịp chuẩn bị thu xếp được trở về miền Xuôi. Khu C – một vùng sơn thuỷ hữu tình thuộc tỉnh Lạng Sơn, chính 1à địa điểm sơ tán đầu tiên của trường ĐHBK Hà Nội, khi đó mang mật danh là trường Hà Huy Tập.

               Trước giờ rút quân, bao nhiêu kỷ niệm vui buồn 1ẫn 1ộn trong những ngày ở đây cứ ào đến chiếm trọn tâm hồn chúng tôi. Khu C đã phần nào tạo cho chúng tôi những cảm xúc để có thể hiểu được phần nào tâm trạng của nhà thơ Tố Hữu trong tác phẩm “Việt Bắc" khi phải tạm biệt “Quê huơng cách mạng" trở về Thủ đô.

               Khu C - nơi chứng kiến lễ tuyên bố chính thức thành lập khoa Toán - Lý – tiền than của các khoa Toán - Tin ứng dụng, Công nghệ thông tin, Viện Vật lý kỹ thuật, Trung tâm máy tính,... hiện nay. Vốn ban đầu của khoa 1à các 1ớp K11 Toán, K11 Lý, K12 Lý, K12 giáo viên cơ lý thuyết, mà sau sẽ gọi 1à K12 Toán, K13 Toán công trình và K13 Lý chỉ vỏn vẹn 108 sinh viên (trùng hợp tình cờ với tổng số sao Thiên Cương, Địa Sát: 36 + 72?).

               Khu C, với những kỷ niệm đầy gian khổ và hy vọng, giờ phút đó đang đi dần vào kỷ niệm trong chúng tôi, và chẳng có gì ngăn được, chúng tôi đành cầm bút hòng ghi 1ại một phần những cảm xúc này qua những đoạn văn vần dưới đây.

 

Tạm biệt Khu C

 

Khu C ơi!

Nay xin tạm biệt người,

Ta trở về miền xuôi học tập.

Bước chân đi cảm như long vừa mất

Một cái gì tha thiết ở nơi đây...

Có phải chăng đã chịu đắng cay?

Mói hiểu hết từng ngày ở đó.

Đời như lật sang trang còn bỏ dở,

Kỷ niệm tiếp nhau, êm ả, nhẹ nhàng...

Ta nhớ một chiều thu nắng vàng

Bước chân lên đây hát vang vang.

Rừng xanh núi đỏ vui chào đón

Róc rách suối reo, rộn bản làng...

Ta nhớ những lần vượt qua sông

Chặt tre, chặt nứa mấy ngày ròng.

Đóng bè vượt thác như thủy thủ

Mảng lật – lặn mò vớt của công

Tinh mơ sương ướt lấy gỗ vầu,

Dao buộc ngang lung, tiếp bước nhau

Lên rừng chặt củi, chèo dốc đứng

Vác nặng, đá cào có biết đâu?

Nhớ khi bóc là mía rách tay,

Vết cũ chưa liền đã vết này,

Làm cả hai tay lo không kịp

Ngứa dặm suýt xoa vẫn hang say...

Đục đẽo trát vách, đánh mái tranh,

Bỡ ngỡ lần đầu sau them nhanh

Thợ bậc mấy đây nào có biết,

Tốt nghiệp – lao động ắt có bằng!

Nhớ hôm nhật thực đón trung thu,

Ăn hạt gắm rang dưới sương mờ,

Những hôm hội diễn vui văn nghệ,

Vang dội rừng xanh tiếng hát hò...

Ôi nhớ làm sao những luống rau

Cải thiện non xanh giữa đất màu,

Bóng người tưới nước dài theo nắng,

Góp phần them “đỏ thắm, chuyên sâu”...

Những lần vác gạo phải đi xa

Dù mấy chục cây chẳng hề hà,

Buổi chợ Pặc Phùa toàn “mình” cả,

Hàng về cĩu kịt -  rú thêm ga...

Quên sao những đên chuyện dưới trăng,

Bên nồi súp săn sủi lăn tăn

Bữa cơm tập thể, canh “toàn quốc”

Sang hẳn hơn nhà, măng lại măng...

Nhớ những hôm lên lớp nghe bài

Mắt nhắm mắt mở ngáp ngắn dài...

Hay quá? – Toàn gật đầu đồng ý!

Thầy gọi đứng lên – đỏ dừ tai

Những ngày gió rét với mưa đông

Lửa đốt sang bừng khắp căn phòng

Ánh mắt lung linh theo ngọn lửa,

Mày mạy nướng thêm ấm trong long...

Ta về ta nhớ mãi không nguôi.

Núi rừng xứ Lạng, nhớ đất người...

Để lại lòng ta bao kỉ niệm

Êm đẹp như dòng nước nhẹ trôi...

Bao giờ lại tời Kỳ Cùng bơi?

Hoa quả vẫn chưa được rõ mùi,

Tiếng Tày mới biết còn bập bẹ

Khu C một thuở - vụt qua rồi...

Ta đi đất Lạng có nhớ chăng?

Thất Khê,

Dốc Bó Củng

Đồng Đăng...

Hẹn đến một mùa Xuân chiến thắng,

Điện cười rừng thẳm lại lên thăm.

 

Lạng Sơn – Từ Sơn tháng 1 năn 1969

Lương Văn Phúc K13 Toán

 

               Ngày tốt nghiệp ra trường, K13 Toán chúng tôi chỉ còn 14 người trên tổng số 36 khi ở Khu C. Những người khác hoặc đi bộ đội, hoặc tăng K, hoặc chuyển khoa và kể cả đã mất vì bom bi của giặc Mỹ còn sót lại trong đợt lao động Xây dựng trưởng.

               Mối người, mỗi cương vị và trách nhiệm khác nhau, cựu sinh viên K13 đều đã đóng góp sức mình với những kiến thức đã học ở trường được vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

               Rất tiếc là đến hôm nay, khi viết những dòng hoài niệm này, đã 37 năm trôi qua, lời hứa trở lại thăm Khu C hôm đó, chúng tôi vẫn chưa thực hiện được. Xin được bày tỏ bằng những lời cuối cùng:

               Xa rồi,

                           xa lắm...

                           những nhớ thương,

               Lòng ta để lại chút tơ vương,

               Cuộc sống làm người thêm thử thách,

               Từ ấy...

                     một thời – thuở Lạng Sơn.

 

Lương Văn Phúc

Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2006

 


Chia sẻ:

Bình luận của bạn: